Kỷ niệm chuyến xuôi Nam 1980……Chuyện xảy ra đã lâu, năm 1980 trên chuyến xe vào Nam thăm gia đình, các anh chị của tôi di cư tự do vào sống ở Lộ Mới thuộc xã Long Hưng, Lấp Vò, Đồng Tháp. Xe khởi hành từ Huế lúc 7 giờ sáng, người ngồi chật cứng cọng thêm hàng hoá và có gần 70 khách trong lúc xe chỉ cho phép chở tối đa là 54.
Thường xe chạy suốt một ngày đêm thì tới bến xe Miền Đông, với thời gian dài như vậy nói chung hành khách, nhà xe đều mỏi mệt. Khách thì ngủ gà ngủ gật cho đến khi nhà xe dừng và thông báo để ăn trưa, tối hoặc dừng bắt buộc để công an, thuế vụ kiểm soát hàng, tư trang hay dừng đôi phút để xả cái riêng tư.
Đường dài cả ngàn cây số, xe vượt qua không biết bao nhiêu là núi đồi, đèo cao, những cảnh thơ mộng của biển xanh, những áng mây lướt thướt trên đầu, những xóm làng dựa bên núi mập mờ, khói sương loã xoã với năm ba cột khói lam vươn lên cao, lên cao rồi hoà tan trong u tịch, mênh mông của cảnh trời chiều.
Ánh hoàng hôn thầm lặng, chiều rơi trên mặt biển, sông hồ tạo nên bức tranh huyền hoặc làm cho lòng người như quên đi đường xa vợi. Những bản nhạc mì ăn liền chả có chút gì ấn tượng, những bài ca chát chúa, sát phạt thêu dệt một đoạn đời đã qua hay vài bản nhạc của họ Trịnh mà lời tối nghĩa, âm u dẫn dắt tâm hồn con người vào cõi thâm huyền u tối, lãng quên những gì đã xảy ra trên quê hương vốn đã phân ly, đau khổ…
Hoàng hôn với hình nạn quạt sau xe chiếu những tia cuối cùng, cụ già ngồi cùng hàng ghế phía bên trái tôi đang ngủ thật ngon lành, tiếng ngáy vi vu hoà với gió, tiếng động cơ xe hiệu Desoto gầm rú một cách uể oải, một vài ánh đèn pha rọi đường của xe ngược chiều làm loá mắt kẻ tỉnh ngủ như tôi. Khoảng nửa đêm xe chạy qua Phan Rang, cụ già thức dậy hét toáng lên.
– Cho xuống, cho xuống.
Nhà xe hỏi:
– Bác xuống ở mô.
Bác trả lời:
– Tui nghe mùi Phan Thiết đây rồi, cho xuống.
Tôi nói với bác:
– Phan Thiết còn xa lắm, bác yên tâm ngủ đi, khi nào gần đến tui sẽ nhắc bác.
Bác nói một cách dứt khoát:
– Chú biết chi mô mà nói, con tui ở vùng làm nước mắm, cái mùi ni dù tui ở Thừa Thiên cũng còn nghe, huống chi chừ nó sặc mùi nước mắm, tới rồi chú à.
Tôi không trả lời vì sợ mếch lòng bác, lúc ấy anh lơ xe mới nói:
– Bác yên tâm, khi mô tới tụi tui sẽ gọi.
Nhìn dáng của bác khắc khổ, áo quần bạc màu lếch thếch, nhăn nhúm mà ác thay trong đó có cả tôi. Xung quanh đa phần hành khách là nữ, buôn bán đường dài và còn có những bà già về thăm quê trở lại theo con bám víu Sài Gòn sinh sống, cuộc sống thời bao cấp tem phiếu nhì nhằng, cái ăn không đủ thì nói chi cái mặc.Trong lòng tôi chát đắng cứ dâng, nhìn trong bóng đêm nhàn nhạt, hầu như mọi người mang theo thức ăn gì thì ăn nấy…Chúng tôi ngồi trên xe đã 15 tiếng mà xe chỉ dừng đôi chút thời gian để giải quyết cái nhu cầu cấp bách của cơ thể, ví như ăn uống, tiêu tiểu chẳng hạn, cho nên cái vệ sinh tối thiểu không có hiện diện ở đây. Với lượng người, hàng hoá đây xe thậm chí không có chỗ để chân, thử hỏi làm sao không bốc mùi được chứ, nhất là về phía các bà ấy lại còn mang theo các sản vật của xứ Thừa Thiên như mắm, ruốc… để làm quà cho con cháu.
Thật ra cuộc sống gặp lúc quẩn bách thì đắn đo làm chi cái môi trường xanh, sạch, đẹp và cũng chẳng ai quan tâm đến thứ này, thứ nọ kể cả trang điểm của người phụ nữ cần có, kẻ đại diện cho cái đẹp của cuộc đời. Những hình tượng vô ngần như Ngu Cơ, Đắc Kỷ, Tây Thi…chỉ là phù phiếm, nó chỉ hiện diện trong sự xa hoa, nhung gấm, giàu sang chứ thời buổi này khó có mà nếu có chỉ là họa chăng! Hành khách trên xe có người lại nghĩ khác, họ lại cười khà khả kèm theo lời tiếu lâm, dân dã…
– Có nhiều hủ mắm lắm, bà con ơi!
Hai người trung niên ngồi phía sau, dí dỏm thêm bớt đối thoại cùng nhau khiến người ngồi xung quanh không khỏi cười mỉm, khung cảnh trong xe vui hẳn lên, tỉnh ngủ hơn nhờ những lời khôi hài ấy, bác ngồi bên tôi lại càng nôn nóng trong lòng và không biết rằng chính họ cũng có tâm trạng như vậy.
Trời sắp sáng, tôi tỉnh ngủ và nhìn lại bên kia, bác đã xuống Phan Thiết tự hồi nào. Bây giờ là Biên Hoà chỉ còn cách bến xe Miền Đông chừng 30 cây số, giờ phút được ngắm lại Sài Gòn, nơi mà trước đây tôi có một vài dịp đến. Đúng 8 giờ, xe đến bến Miền Đông, nhìn khung cảnh vẫn y nguyên nhưng có cái gì đó khang khác, xích lô, xe ôm mời chào khách một cách vồn vã sống sượng, giành giật nhau miếng cơm, mạnh áo lại nở rộ lời văn vẻ.
– Sư phụ về đâu, giá rẽ thôi mà sư phụ.
Hoặc:
– Anh trai về đâu, thằng em đưa về.
Sự pha tạp, bi bô, tiếng lóng tiếng gió làm cho lòng tôi cảm nhận được sự mất mát quá lớn, nó đánh mất đi nét văn hoá của trước năm 75 mà tôi đã từng thấy, từng nghe và từng biết. Đường phố có vẻ vắng hơn, người đi lại cũng ít hơn như Trưng Vương, Nguyễn Huệ,…nhưng những khu chợ ở Sài Gòn, xưa nay là nơi tập trung cũng như phân phối hàng hoá nên có vẻ sầm uất hơn, đông người hơn bởi mọi miền đều đổ về đây, kẻ buôn người bán, mắt lấm lét nhìn ngó trước sau như sợ phải gặp ma.
Cũng như ở Huế vậy, cái cảnh buôn tảo bán tần, trốn trước lủi sau, nón lá cũ mèm trên đầu của người lại vãng chợ, những khuôn mặt khắc khổ,lo âu góp phần làm tàn phai nét dịu dàng vốn có của người phụ nữ, những tà áo trắng hồn nhiên của nữ sinh sau giờ tan học hoặc tới trường giờ không còn nữa.
Đến Sài Gòn mới thấy trước năm 75 được ví là hòn ngọc Viễn Đông giờ chỉ còn là ảo, cũng tấp nập, cũng xô bồ nhưng chỉ là cảnh kéo lùi về phía trước. Tiếng nổ của xe Lam, xe ba gác khói tỏa mịt mù, có lẽ do không có phụ kiện để thay thế mà chỉ là đồ độ đi độ lại, ì ạch oằn mình chở khách hoặc sản vật mọi nơi tập trung về đây, chen chúc nhau một cách xuôi ngược, vội vã, tranh thủ từng giờ từng phút kiếm miếng cơm manh áo. Một cái cảnh bon chen hiện lên trên từng khuôn mặt hốc hác, sạm da cháy nắng hay những bác xe ôm, xích lô chờ khách đang ngồi hút thuốc rê bên ngã tư, ngã ba đường hay trước chợ, cửa hàng mà quần áo bạc màu, tâm như đầy lo lắng đưa lời mời khách vãng lai đi xe…
Nhìn cảnh ấy, lòng tôi thật ngỡ ngàng, tiếc cho một thời đã qua đô hội và phồn vinh biết mấy, một thời mà Sài Gờn được ví như hòn Ngọc Viễn Đông! Ngồi trên chiếc xe Lam về xa cảng Miền Tây, hình như đường phố cũng vậy, chẳng có gì đổi khác mà lại là sự im ắng, ít có hàng quán mà trước 75 có mà nếu có cũng chỉ là lác đác thôi và chỉ là sơ sài che vài tấm tôn cũ, vàng ố rỉ sét.
Và đây là xa cảng Miền Tây, tôi mua vé và lên xe, từ lúc khởi hành cho đến 3 giờ chiều mới tới phà Bắc Mỹ Thuận, qua phà xe lại chạy tiếp hướng Sa Đéc để tới Hoà Long rồi lại chạy tiếp chừng 1 cây số là Lộ Mới, phía bên phải dọc con lộ Mới này là nơi ở của Mẹ và các anh chị em của tôi. Trời đã gần chạng vạng, vẻ hoang sơ của ruộng đồng, những túp nhà lá đơn sơ, những bà già đi chân trần đầu quấn khăn, những trai tráng thanh niên lưng trần thịt bắp,… Nhìn cái vẻ hoang sơ ấy mà chạnh lòng nhưng bù lại họ có tâm hồn, tính thật thà, biểu hiện sự chất phác của người dân miền sông nước.
Lai rai cứ mỗi chiều về, ở đây tôi không tránh khỏi cái vui dân dã ấy nhưng chỉ ít thôi chứ không bằng người nơi đây được, thức nhắm chỉ là những trái ổi hoặc xoài chấm muối ớt, khá lắm thì vài ba con khô sặc nướng, vài khúc cá “zồ” canh me chua,…
Và cứ thế mỗi chiều lại lai rai, xen vào đó là vài câu vọng cổ, tân cổ giao duyên ca tụng tình yêu đôi lứa hoặc vẻ thanh bình nơi đây. Tính chất phác, yên phận với mươi công đất thậm chí chỉ vài, ba công đất mà cha ông họ để lại, sinh cơ bắt nguồn từ ấy, nhưng trên tất cả đó là sự vừa lòng, thỏa mãn, đất cho họ niềm tin mà nhất là sự an phận. Họ không nói gì ngoài ruộng đồng, ao cá, sự đi lại bằng ghe xuồng, những chiếc cầu bắt ngang con rạch mà bề ngang chỉ chừng 1 mét giúp cho họ đi lại thuận tiện dễ dàng hơn mà thôi.
Trở lại quê huong, nơi tôi được sinh ra và lớn lên, học hành, trải qua những bước phong trần, ải khổ,… Và rồi, cuộc đời tôi lại rẽ qua hướng khác khi bỏ nơi chôn rau cắt rốn để trú ngụ nơi này (Huế). Khi vừa ổn định nơi mới, tôi lại đi một chuyến xuôi Nam để thăm các anh chị em của tôi lúc này sống và làm ăn ra sao…
Hơn 30 năm kể từ 1983, hơn 1/4 thế kỷ, tôi lại có dịp vào Sài Gòn năm ba lần nữa và những con đường, nhà cửa có sự đổi thay. Đó là tất yếu, là đương nhiên nhưng không còn nét dịu dàng, hồn nhiên duyên dáng, nét truyền thống, cách ứng xử, giao tiếp cũng dần mất, hoà tan và trôi theo dòng sông lịch sử. Con người đông hơn, hỗn tạp hơn, lắm chiêu trò hơn và thành phố cũng rộng hơn, cao hơn…
Khói bụi ngút trời, người cùng ô tô chật cứng như nêm, chen chúc nhau như sắp lớp, không khí lan tỏa mùi tạp uế, khó thở… Những con đường cũ vẫn y nguyên, nhiều con đường mới mở mang tên rất lạ và hầu như tất cả đều đi vào dĩ vãng, dĩ vãng của sự chua chát, đắng cay, gợi cho tôi một thời để nhớ và yêu khắc cốt.
Bài viết: Nguyễn Nguyên Thường
Hình ảnh: Phanthietpho